“Du mục” – bi kịch của con người vong quốc, vong thân
Hai năm nay, cứ đến 1.4, ý định viết về nhạc Trịnh của mình thay đổi 180 độ, từ nhạc tình chuyển sang ca khúc Da vàng. Định tự sự một chút cùng nhạc Trịnh về tình yêu, những mất mát của tình thầm nhưng bế tắc, chẳng thấy gì mới mẻ. Chợt nghe "Du mục" ngân vang những ca từ, giai điệu ám ảnh về quê hương và thân phận con người. Sau những quan sát, nhiều trải nghiệm, suy tư, mình bắt đầu thấu và thấm bi kịch của "Đàn bò vào thành phố/ Không còn ai hỏi thăm" và "Một người vào thành phố/ Không còn ai người quen"... Đó là bi kịch tự thân/ tự ý thức của kiếp đời sống vong quốc, vong thân.
Ca từ mở đầu đã khiến ta gai người, nhói buốt trước tội ác và sự huỷ diệt của chiến tranh. Những mất mát, đau thương hiện hữu từ rung cảm từ bên trong, từ trong nhận thức của con người về thân phận giữa mênh mông, hoang vắng, tịch liêu, trống rỗng:
Đàn bò vào thành phố
Đêm buồn vắng buồn hơn
Đàn bò vào thành phố
Không còn ai hỏi thăm
Đàn bò tìm dòng sông
Nhưng dòng nước cạn khô
Đàn bò bỗng thấy buồn, bỗng thấy buồn
Rồi một hôm đứng mơ mây ngàn
Một người vào thành phố
Đếm từng bước buồn tênh
Một người vào thành phố
Không còn ai người quen
Người tìm về đồng xanh
Nhưng đồng đã bỏ không
Rồi người bỗng thấy buồn, bỗng thấy buồn
Người chợt nghe xót xa đất mình
Những ca từ được viết
theo lối ẩn dụ như một ngụ ngôn về thân phận con người (hay cả một dân tộc?)
hoang tàn tàn trong chiến tranh. Một đàn bò đi tìm cội nguồn trong thành phố và
chẳng thể gặp một chút ít dấu hiệu nào của thân quen, của quá khứ. Đêm buồn.
Thành phố hoang liêu. Người xa lạ. Dòng nước cạn khô. Cảm giác đâu chỉ dừng lại
ở buồn mà còn lại chống chếnh, chơ vơ, lạc loài. Quá khứ hay những thân tình
giờ chỉ còn là “đứng mơ mây ngàn”, là chút dư ảnh của một thời vang bóng trong
ký ức xa xăm. Ở đây, đàn bò hay bầy người đang thực sự hoang mang, bất an khi
trở nên xa lạ với chính quê hương, đất nước mình, khi mọi mối liên hệ với quá
khứ đã bị đứt gãy. Những tâm hồn đang thổn thức vì bị cưa đứt, đánh bật gốc rễ
với nguồn cội trong cô đơn, sợ hãi, trong một khoảng trống mênh mang không có
gì lấp được trong trái tim thổn thức, tự cảm, tự nhận ra bi kịch mất mát đến
không còn chốn dung thân hay một điểm tựa nương nào, như một đứa con hoang
trong gia đình sung túc, đủ đầy sự hiện hữu người.
Cấu trúc ca từ theo lối song hành đi từ ẩn ngữ sang bộc lộ
trực tiếp những bi kịch thân – phận – người. Người vào thành phố cũng đâu có
khác gì bò: cũng đếm từng bước buồn tênh, cũng không còn ai người thân, tìm về
đồng xanh thì đồng đã bỏ không… Tất cả đã lìa bỏ, tất cả chỉ còn lại tang tóc,
khô khan. Cái nguồn sống, nguồn sinh dưỡng cho một đời – sống – người thực sự
đã không còn. Cá thể một con người như tô đậm thân phận của một thiểu số, của
những chủ thể đang bị biến thành thiểu số trong không gian quen thuộc của đất
mình. Họ bị đẩy ra ngoài lề, mất đất, mất nước, và không nhận ra cả bản thân.
Họ chỉ còn biết xót xa cho đất mình trong trạng thái bất lực, tuyệt vọng. Bi
kịch vong thân, vong quốc, hơn ở đâu hết, nhói buốt như trong hoàn cảnh chiến
tranh. Bởi mỗi con dân Việt, đang ở trên đất Việt nhưng lại thấy mình lạc lõng,
xa lạ, lại không thấy được chính mình bằng sự kết nối với quá khứ, với cội
nguồn, hay người quen. Bởi xét cho cùng, con người cần phải biết cái khác, sông
trong cái khác mới xác nhận được bản thể của mình, nhưng để khẳng định, gìn
giữ, phát triển cái bản thể ấy thì người ta cần chốn nương tựa là những gì gần
gũi, thần quen, là cái cảm giác được ở trong số đông, giống mình. Và trong tình
cảnh sống ấy, những thiểu số cá thể mong manh chỉ còn biết dành “những giọt
nước mắt cho quê hương”:
Ôi quê hương đã lầm than
Sao còn, còn chiến tranh
Mẹ già hết chờ mong
Đã ngủ yên
Mẹ già mãi ngủ yên
Buông lời ru cho muôn năm
Buông vòng nôi cho hư không
Cho hư không
Buông bàn tay con đi hoang
Con đi hoang một đời
Con đi hoang phận này
Quê hương, mẹ và con, tất
cả bị cuốn trong cơn xoáy lốc của chiến tranh. Tang tóc nối tiếp lầm than, đau
thương chồng lên khổ cực. Tất cả sự hiện hữu của một đời sống đều trở nên hư ảo.
Mẹ nằm yên “buông lời ru cho muôn năm”, “buông vòng nôi cho hư không”, “buông
bàn tay” khiến “con đi hoang một đời”, “con đi hoang phận này”. Những lời ca
thê thiết nghẹn ngào xót xa vì những nỗ lực cuối cùng của tình thương, của sự
chở che đã bị hủy diệt trước tội ác. Con mất mẹ, cả dân tộc mất mẹ Tổ quốc, con
đi hoang và cả một dân tộc đi hoang vì bị đánh bật gốc rễ, bị thiêu rụi mọi
nguồn sống. Một đời đi hoang có thể chỉ là nỗi khổ thông thường nhưng khi thân
phận cũng là đi hoang thì thực sự là bi kịch lớn, bi kịch một kiếp sống, bi
kịch một dân tộc, một thời đại lịch sử, cũng là của bản thể tồn tại người trong
những cảnh huống sống tương tự. Bởi lịch sử luôn luôn có sự lặp lại và có những
bi kịch tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của loài người như bản mệnh của
họ, trong đó có cảm giác vong quốc, vong thân.
Khép lại bài hát, hình
ảnh đàn vò và con người vào thành phố vẫn lặp lại, đan quyện như một ám ảnh:
Đàn bò vào thành phố
Réo buồn tiếng hạt chuông
Một người vào thành phố
Nghe hồn giá lạnh băng
Người tìm về đầu non
Nhưng rừng đã bỏ hoang
Rồi người bỗng hết buồn, đã hết buồn
Người lặng nghe đá lên trong mình
Ở đây, ta thấy có sự đối
lập gay gắt giữa đàn bò, con người với thành phố, một cái gì đó quá khác, quá
mới, đập vỡ, xô đổ mọi mối liên hệ với môi trường cũ, để con người không nhận
ra chính quê hương và bản thân mình. Nỗi buồn cứ thấm sâu, chết lặng trong đau,
xót. Ca từ cuối cùng của ca khúc là con người hết buồn, tưởng thanh thản nhưng
lại nặng trĩu. Bởi hết buồn vì “đá lên trong mình”, tức biến thành người – đá,
một sự tồn tại phi sự sống. Con người chết lặng, hóa đá, hay nói đúng hơn là tồn
tại như một cái xác, sống cùng nỗi đau vong quốc, vong thân.
Nghe nhiều lần “Du mục”,
tôi rùng mình khi nhìn thấy hàng ngày, hàng giờ, trên đất nước này “không còn
chiến tranh” nhưng lại không có trẻ con “hát đồng dao hòa bình” nhưng lại có vô
số bi kịch vong thân, vong quốc. Bao người Việt nay phải lìa bỏ quê hương,
người thân, đi kiếm sống, trở về trong tâm thức hoang mang, chán chường, chả
biết mình thuộc về đâu? Bao người vĩnh viễn không thể tương hợp với xã hội này,
nên vĩnh viễn ly hương? Và ngay ở trong nước Việt này thôi, người ta chặt cây,
lấp sông, phá chùa; người ta đạp đổ mọi thứ liên quan đến quá khứ để xây dựng
những thứ mới toanh, thay đổi cả chất và lượng… nghĩa là cắt lìa con cháu với
truyền thống, với cội nguồn. Người ta dựng lên một đống những thứ nhất: cao,
to, dài, rộng, lớn… mà không mang một chút hình hài, dáng dấp gì chứ chưa nói
đến linh hồn, cốt cách của quê hương xứ sở. Một ngày nào đó, người đi xa trở về
không còn nhận ra nơi chôn rau cắt rốn vì không còn dấu hiệu nào liên hệ với quá
khứ. Một khoảng tĩnh lặng nào đó, sau tất cả bộn bề lo toan, quay cuồng vì cơm
áo, ta chợt nhìn ra trước cửa nhà mình, ta không còn thấy chút gì quen thuộc. Một
tương lai không xa, lố nhố người xung quanh ta là những người khác dòng máu,
màu da, khác ngôn ngữ tràn ngập. Và một ngày nào đó, ta không còn thấy một gì
đó gần gũi, quen thuộc xưa kia khi gặp những con người ta vẫn bắt gặp hàng
ngày… Cái cảm giác đó chẳng phải vong thân, vong quốc là gì? Và ta ngỡ ngàng
mình là đàn bò, là người vào thành phố nhưng thực chất là đi hoang, là sống du
mục trên quê hương, trong một thời đại người ta gán cho cái mác hòa bình.
Một đất nước không còn
chiến tranh nhưng chưa chắc đã có hòa bình. Con người sống trên mảnh đất sinh
ra nhưng chưa chắc đã được hưởng trọn vẹn cảm giác mọi thứ là – của – mình,
nhưng vẫn sẽ còn bi kịch vong quốc, vong thân. Một dân tộc sau “hàng ngàn năm
nô lệ giặc Tàu”, “hàng trăm năm đô hộ giặc Tây” nhưng “gia tài của mẹ” là “một
bọn lai căng”, là “một lũ bội tình” thì bao kiếp người vẫn sống trong bi kịch
này, vẫn mang thân phận của “đàn bò vào thành phố”. Và nước Việt ngàn năm lịch
sử chỉ là cái vàng son ảo tưởng, che đậy đi cái nước Việt buồn, giống như những
kỷ lục nhất liên tục kia che đậy đi cái tâm lý nhược tiểu, cái nghèo hèn, yếu
kém của một đất nước, mà đại đa số người dân chọn im lặng, thỏa hiệp và ru ngủ
mình trong chủ nghĩa AQ.
Hà
Nội, 1-2/4/2015
Nhận xét
Đăng nhận xét