Bản Mông không còn bài ca trên đỉnh núi

         

          Chúng tôi đến bản Mông hoàn toàn do một sự tình cờ và may mắn. Hai anhh em, những kẻ lữ hành bơ vơ không biết tìm đâu chốn ngủ khi chiều đã đang buông. Tình cảnh của chúng tôi quả tình là tiến thoái lưỡng nan vì đang ở chót vót trên núi cao, quay lại thị trấn Bắc Yên mất 15km đường đèo núi rồi sáng mai lại quay lên tìm mây cũng mất đúng quãng đường ấy, mất quá nhiều thời gian cho những cung đường gian truân không cần thiết: còn ở lại thì “đêm nay anh em ta ngủ đâu?”. Hihi. Những kẻ liều lĩnh vẫn cứ quyết định không hạ sơn mà ở trên ngắm mây trời, thưởng thức cái nắng chiều chênh chao trên đỉnh ngút ngàn của Tà Xùa đã. Chuyện ngủ sẽ tính sau, cùng lắm là đánh liều vào cái trường học nội trú cũng không xa đó lắm, vừa mới đi qua xin tá túc.
           Đang mải mốt chụp ảnh giữa con đường mòn chênh vênh đỉnh núi thì bạn đồng hành gọi lại và tôi lò dò theo con đường mòn ấy trở về nơi bạn đang đỗ xe. Một người đàn ông dân tộc Mông cùng hai đứa nhỏ đứng đó với hai chiếc xe máy (1 wave, 1 win) đang nói chuyện với bạn đồng hành. Mới thấy người đàn ông ấy tôi chào bằng chú nhưng sau giới thiệu mới biết, bạn ấy tư Trư (Chư?), sinh năm 1987, còn kém tuổi của chúng tôi và mấy đứa trẻ kia là con của bạn ấy. Bạn đồng hành nói “Tối nay sẽ vào nhà bạn Trư (Chư?) trong bản Mông ngủ”. Tôi vừa mừng vừa lo, vừa háo hức vừa băn khoăn bởi lần đầu tiên đi xa, lên một xứ núi non mây ngàn vào bản ở một nhà một người mà phút trước hoàn toàn xa lạ. Trong khi chờ vợ của Trư (Chư) lên, chúng tôi mới biết là gia đình họ đi làm nương và đang đi lấy củ dong riềng về trồng.
          Từ lúc gặp gia đình người Mông tôi vẫn băn khoăn về hai chiếc xe máy, nhất là về cậu bé nhìn nhỏ nhỏ cưỡi trên chiếc xe win. Sự băn khoăn đó không phải vấn đề tài sản hay sở hữu mà ai sẽ đi chiếc xe kia. Bản thân tôi, trong chuyến đi này, không thể cầm lái những đoạn đường đèo, nhất là kiểu địa hình như con đường trước mặt sắp qua, mọi sự trông cậy vào bạn đồng hành. Nhưng khi theo gia đình bạn người Mông về, tôi ngỡ ngàng vì cậu bé kia, mới chỉ học lớp 8, điều khiển con win đi vun vút trên đường dốc hiểm trở với hai em ngồi sau và dẫn chúng tôi về nhà. Và suốt hơn chục cây số lên Tà Xùa kể từ thị trấn, đường lởm chởm, quanh co, gập ghềnh không chỉ có dốc đèo mà còn sạt lở, có biết bao nhiêu chiếc xe của người bản địa phi nhanh như tên lướt qua chúng tôi đang cẩn thận đi lên trong sự tập trung và thân kinh căng như chão. Con đường chính vẫn được người dân ở đây gọi là đường lớn, đường đẹp. Bạn Trư (Chư?) dẫn chúng tôi về nhà bằng một con đường tắt, gần hơn nhưng mà cũng đặc biệt, có một không hai. Con đường mòn nhỏ xíu khúc khuỷu, gập ghềnh với những con dốc thăm thẳm, những khúc cua không thể bất ngờ hơn. Tôi buộc phải xuống đi bộ khi đến đoạn nhiều dốc và rất cao để bạn đồng hành dễ điều khiển xe, trong khi các bạn chủ nhà thì vẫn đi như không, nhanh và vững vàng. Nếu trời mưa thì con đường này sẽ không thể đi xe máy vào được và cách duy nhất về bản chính là đi bộ, như cách tôi đang thực hiện. hehe. Tôi, một đứa trẻ xuất thân nhà nông đặc sệt, cả tuổi thơ chăn trâu cắt cỏ, khi nhìn các bạn người Mông đã phải tự nhận mình là dân thành phố, không có đủ sự mạnh mẽ, can trường, táo bạo như các bạn ấy. Bạn Trư (Chư?) còn nói rằng trẻ con ở đây không cần phải dạy, lớn chút là tự biết đi xe máy, không biết là thật hay hư cấu? Nhưng tôi nghĩ nhiều phần là thật vì những con đường như thế sao mà dạy được?
          Nhà Trư (Chư?) cũng như nhiều gia đình dân tộc Mông khác ở lưng chừng núi cao mà theo đơn vị hành chính là Bản Cáo A, xã Làng Chếu, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La. Tôi không rõ bản làng tính theo địa lí ra sao nhưng ở xung quanh đó chỉ có 4 nóc nhà, đều là người thân, họ hàng của bạn ấy. Xa xa mới thấy một vài nóc nhà khác, ở những ngọn đồi khác. Và như thế, người Mông ở những làng bản gần như độc lập, chỉ họ sống với nhau cùng gia đình thân thiết, tách biệt khá xa với bên ngoài. Nếu xác định theo phương hướng địa lý thì nơi chúng tôi đang đứng, rồi ở đây qua đêm sẽ là lưng chừng núi lúc trước chúng tôi đứng ngắm và chụp ảnh. Và nếu may mắn như những chuyến đi cùng bức ảnh của các bạn phượt săn mây khác chúng tôi tham khảo trên facebook thì nơi đây sẽ chìm lấp trong biển mây khi có mây ngút ngàn, chồng chất. Nhưng chúng tôi không gặp may vì thời tiết quá khô, lại có gió Lào nên không hề có mây và lại càng không có cảm giác đang được bồng bềnh chốn tiên cảnh khi mây vờn quanh nhà.
          Đi bộ vào bản cũng có cái hay, khiến tôi quan sát được nhiều, có thể dừng lại ngắm và cảm được không gian, không khí riêng của bản làng Mông. Những rừng cây lối tiếp theo con đường mòn hun hút. Dê, bò, trâu lúc lắc nhạc chiều trở về. Những nếp nhà thấp lè tè hiu hắt nắng chiều chênh chao trong cái đại ngàn của núi non trơ trụi đan xen những mảng rừng leo lắt. Tôi cảm nhận được những dấu chân của bao người đã đi qua con đường này, để sinh tồn, để vươn ra một cuộc sống mới, cũng là để thu mình lại, giữ gìn một cái gì đó riêng cho mình, trong một không gian gần như khép kín, tách biệt, để an toàn hơn? Cho nên, chúng tôi gần như là những người khách cực hiếm từ thành phố đến đây, lưu lại nhà họ. Những đứa trẻ nhìn chúng tôi vừa vô tư, vừa lấm lét. Chúng khá nhút nhát và gần như không nói gì với chúng tôi. Một bé gái khoảng 2, 3 tuổi gì đó đã khóc ré lên khi chúng tôi chụp ảnh. Em nép vào sau lưng thằng anh chỉ nhỉnh hơn một cái đầu. Những người phụ nữ thì biết rất ít tiếng Việt nên rất khó để nói chuyện. Khi nói chúng tôi buộc phải nhấn vào một vài từ dễ hiểu nhất để biểu ý và dùng ngôn ngữ hình thể nữa.
          Nhữ mọi ngôi nhà khác của người Mông, nhà bạn Trư (Chư) cũng là ngôi nhà truyền thống, nền đất, vách gỗ, tựa lưng vào núi, nhìn ra thung lũng xa. Vì ở lưng chừng núi nên những khoảng không gian như sân là rất hẹp. Nhưng cái địa thế ấy lại là nơi ngắm cảnh tuyệt vời. Ngồi ở một địa điểm trong vườn, chúng tôi có thể quan sát cả thung lũng phía trước, những dãy núi trùng điệp, những thửa ruộng bậc thang xếp tầng không xa lắm, những vạt rừng ít ỏi với những cây hoa trắng bung nở như điểm nhấn. Ngồi ngắm hoàng hôn trên đỉnh Tà Xùa, cảm giác thật bình yên, thư thái. Tôi thấy mình đang sống thật yên tâm, vô ưu, có thể quên đi mọi thứ, và nhất là, trái tim đã có những nhịp đập khoan thai sau một chặng đường dài ngồi trên xe máy với cảm giác chống chếnh của người đu dây.
           Đến bản Mông, hình ảnh đầu tiên, ấn tượng, “đập” luôn vào mắt tôi là chiếc váy hoa sặc sỡ phơi trên dậu, xòe như cánh bướm sặc sỡ. Từ hình dáng, màu sắc của chiếc váy truyền thống trong không gian ấy đã tự ngời lên thần thái, tâm hồn của dân tộc. Không phải lần đầu tiên tôi đi lên miền núi cao Tây Bắc, được nhìn thấy những người Mông trong chiếc váy xòe nhiều màu sắc, nhưng khi nhìn thấy chiếc váy đem phơi đó, tôi lặng đi vì cái cảm giác thực sự được ở trong không gian văn hóa bản địa của họ. Trước đây, tôi chỉ là kẻ đi đường kính nhi viễn chi mà thôi. Xa xa, khói bếp lan tỏa trong ánh nắng chiều. Những con bò đã được cột vào chuồng thong thả nhai cỏ. Tiếng  Xa (Sa?) – bạn vợ Trư (Chư?) gọi gà bằng thổ ngữ thánh thót. Người phụ nữ nhà phía trên đang tắm cho những đứa trẻ nhỏ và giặt những chiếc váy hoa xòe. Mấy đứa trẻ con được thỏa thích nghịch nước, nô đùa hồn nhiên bên mẹ. Những chú lợn mán vẫn tinh nghịch chạy lăng xăng. Con chó như quen cả cách khép cửa biết lách vào nhà mà không tạo nên tiếng động. Dê kêu be be trên đường về. Cả núi đồi và rừng già đang sẫm dần trong ánh mặt trời lụi tắt. Tôi như được thấy một nếp sống ban sơ, một không gian bình yên vốn có trong cái thường nhật của sinh hoạt sống. Ở đây, rất nhiều những phong tục, thói quen sinh hoạt, cách suy nghĩ, cư xử  của dân tộc vẫn được gìn giữ, lưu truyền. Dù chỉ thoáng qua bằng đôi mắt của những kẻ du lịch, tôi bắt đầu cảm nhận được một chút cuộc sống, tinh thần của người Mông nơi đây, những con người sống cùng, sống hòa mình với núi đồi, cây cỏ.
             Tuy vậy, dù có tách biệt, dù có gìn giữ đến mấy thì người Mông cũng như mọi dân tộc khác vẫn phải sống, phải thích ứng với cái xã hội này, cái xã hội đang vận động không ngừng nghỉ. Họ không thể du canh du cư được nữa vì rừng đã chẳng còn, núi đồi đã trọc lốc để biến thành nương, thành ruộng. Ở bản Mông giờ đây, không có những bài ca lãng mạn, tình tứ trên đỉnh núi, cũng chẳng có tiếng sáo, tiếng khèn mùa xuân gọi bạn tình yêu đương. Các bạn ấy cũng phải đối mặt với sự mưu sinh, với những nhu cầu của cuộc sống hiện đại: con cái phải đi học, phải xây nhà dựng cửa, phải mua phương tiện đi lại, nhất là làm nương cũng khá xa, phải chi phí cho mọi sinh hoạt mà đâu phải cái gì cũng tự sản xuất được. Điện lưới đã về đến tận nhà, dù mới hai năm nay, nhiều đồ dùng sinh hoạt hiện đại đã xuất hiện: như nồi điện, điện thoại di động, ti vi, xe máy... Kể cả những thứ truyền thống nhất như váy của phụ nữ Mông giờ cũng mua. Cho nên, bạn sẽ khó tìm được hình ảnh một người phụ nữ kiểu cô Mị trong tác phẩm của Tô Hoài ngồi tước sợi đay hay dệt vải. Như những con đường đèo chông chênh một bên núi, một bên vực, người Mông giờ đây cũng đang đi trên con đường chông chênh, gập ghềnh để tồn tại, phát triển, để thế hệ sau sẽ có cuộc sống tốt hơn thế hệ bố mẹ chúng. Bản sắc, văn hóa, tinh thần hay những thứ gần gần như thế rồi cũng sẽ mai một đi, dần dần sự vô tư, hồn hậu sẽ bị thay thế bởi những toan tính, bởi những âu lo. Tôi chợt thấy nhen lên một chút xót xa khi nghĩ tới điều đó, khi nhìn những đứa trẻ, dẫu ở đây không phải đói nghèo, thiếu thốn, có chút gì đó ngơ ngác, nhỏ bé, còi cọc, không được hưởng cái xúng xính áo quần, quà cáp như những nơi khác.
            Bữa cơm/ rượu tối được dọn ra, cũng mộc mạc, chân chất như chính chủ nhân của nó. Dẫu ban đầu theo đề nghị của bạn đồng hành thì gia đình chuẩn bị cho chúng tôi và chúng tôi sẽ gửi một khoản, dù cũng chỉ mang tính tượng trưng song không khí, tính chất của bữa ăn lại là của một gia đình, chúng tôi được coi là khách, là bạn. Thịt gà nhà, rau rừng hái lúc chúng tôi đi từ đường lớn về, măng cũng của nhà và cơm gạo lúa nương. Mọi thứ đều tươi giòn và ngon tuyệt cú mèo. Trư (Chư?) có mời một số người cháu của mình sang ăn cùng, vui vẻ, quây quần. Chúng tôi chúc nhau sức khỏe, mừng vì cái duyên gặp gỡ ấy. Chúng tôi dường như quên đi thời gian, say sưa trong men rượu cũng là của nhà tự nấu, trong những câu chuyện của mình. Ở đây, có một cách uống rượu rất hay là gần như không ép uổng gì. Cứ rót ra, uống được bao nhiêu thì uống, say thì đi ngủ, giường cạnh đấy, rất giống đợt tôi đến xứ Mường hồi Tết. Đi đường xa, mệt và đêm trước ngủ ít, tôi đã phải dậy đầu tiên, uống trà, trong lúc mọi người vẫn vui vẻ. Thứ trà ở bản Mông cũng đặc biệt vừa thơm, vừa mát, nước hơi xanh và trong. Mọi thứ đều khiến tôi cảm thấy cái vẻ đẹp của sự thanh khiết, mộc mạc, trong ngần.
          Tôi choàng tỉnh sau một giấc ngủ cứ ngỡ là rất dài. Chặng đường xa tốn sức khiến tôi muốn được ngủ nhiều hơn và có cảm tưởng sẽ nằm ngủ cả ngày được. Nhưng tôi đã thức dậy rất sớm, nhìn đồng hồ mới có gần 5 giờ sáng. Không thể tiếp tục ngủ, tôi trở dậy đi dạo, ngắm bình minh trên đỉnh núi. Mọi thứ vẫn mịt mờ, tăm tối. Gà eo óc gáy xa xa, rồi lại gần gần. Cái lạnh ở độ cao khoảng 2000m so với mặt nước biển thấm thía vào hồn tôi. Đầu hè, ngày nắng còn thế này huống chi mùa đông. Đến lúc đó, tôi mới thực sự hiểu cái câu mà ông Tô Hoài viết trong truyện “Vợ chồng A Phủ” đại ý là: Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, nếu không có ngọn lửa Mị chết héo. Bạn Trư (Chư?) bảo rằng mùa đông ở đây lạnh lắm, chẳng đi làm gì được, hầu như chỉ ở nhà đốt lửa sưởi mà thôi. Sự khắc nghiệt của thời tiết ấy dường như đã in hằn trên gương mặt của các bạn, dù tuổi đời còn trẻ nhiều lo âu bộn bề, nhiều khắc khổ, trầm tư.
          Lo âu, suy tư cũng đúng thôi vì bạn ấy là trụ cột cho cả gia đình. Ở bản Mông này, dường như các cuộc hôn nhân không dính gì đến luật pháp. Dẫu ở bản Mông giờ không còn ngày hội như trong truyện, trong sách, không còn tục cướp vợ, chẳng còn tiếng sáo, tiếng khèn đi tìm bạn tình trong đêm xuân nữa nhưng họ cũng nên vợ nên chồng theo cách riêng. Gặp nhau, thấy hợp, thấy thích là cưới nhau theo phong tục, bất kể tuổi tác. Cho nên, bạn Trư (Chư?) và Xa (Sa?) mới 28, 29 tuổi đã có 4 con và con gái lớn thì đã lấy chồng. Các bạn ấy cùng thế hệ 8x như chúng tôi nhưng không hề được đến trường, cũng không biết chính xác ngày sinh của mình nữa. Cho nên, con cái bây giờ, các bạn ấy đều cho đến trường, đều mong muốn học được đến nơi đến chốn. Nhưng con đường đến một cái đích học hành với những đứa trẻ như cậu bé con của các bạn là khá gian nan. Một cậu bé mới học lớp 8 nhưng hầu như phải làm rất nhiều việc, tự lo tất cả những thứ cá nhân của mình, thứ 7, chủ nhật được nghỉ lại phụ bố mẹ đi nương làm rẫy. Một năm nữa, nếu em đi học tiếp lên cấp 3 sẽ phải qua 20km đường đèo núi, hạ sơn xuống thị trấn huyện lỵ học. Cái chặng đường đã thử thần kinh của chúng tôi, những kẻ đi phượt từ thành phố cũng sẽ là thử thách với em, dù em đã quá quen cung đường đó. Bởi con đường em đi không chỉ là con đường cơ giới mà phương tiện giao thông vẫn thường đi. Tôi chạnh lòng nghĩ đến những đứa trẻ quê mình, những học sinh của tôi, có điều kiện gấp nhiều lần nhưng chẳng chịu đi học cho, và nhiều đứa bố mẹ phải rình rập ngày đêm ở quán điện tử để mong con đến trường.
          Dù sớm tinh sương nhưng tôi đã thấy mẹ và vợ của Trư (Chư?) dậy nấu cám, nấu cơm. Bà mẹ thái rau chuối, cây dong riềng, vợ bạn ấy nấu cơm. Ánh lửa bập bùng giần giật dưới cái vạc bốc khói nghi ngút. Có lẽ chỉ còn ở những nơi cuộc sống cách xa văn minh đô thị, còn nguyên vẹn sự hoang sơ mới có không khí ấy. Dạo bước lên khoảng không gian thoáng để ngắm bình minh, để nhìn lại lần cuối bản làng trong sương sớm, trong cái sự tranh chấp sáng tối đêm ngày. Cảnh tượng kỳ thú chắc chỉ có ở lưng chừng núi của bản Mông: bên  phía đông mặt trời đang ló rạng những tia sáng đầu tiên, còn phía Tây thì trăng đang treo lơ lửng như một vầng tròn trên núi. Đây là khoảnh khắc giao hòa, cũng là cái ranh giới chênh chao của cuộc sống với mọi đối cực đang diễn ra. Hai anh em ngồi một lát thì bạn Trư (Chư?) ra. Tôi hỏi mấy câu cuối cùng, cũng là vài thắc mắc trên đường đến đây, về những khoảng đồi cao vút, trơ trọc ra màu vàng ệch hay đỏ lòm lở lói đất cát. Bạn ấy bảo đó là nương, là ruộng. Mưa xuống thì cả quả đồi, dù cao như thế sẽ là ruộng bậc thang để cấy lúa hoặc trồng ngô. Nghe những điều đó, tôi tưởng tượng ra một vẻ đẹp kỳ thú của những ruộng bậc thang chồng xếp ngoạn mục, kỳ vĩ mùa đổ nước hay mùa lúa chín. Nhưng sau cái khoảng khắc lãng mạn ấy, cái tôi thấy se thắt lại là sự kham khổ, khắc nghiệt của khí hậu, thời tiết. Tất cả mọi thứ đều phụ thuộc vào ông trời, vào những trận mưa ít ỏi trong năm. Trong bữa rượu tối hôm trước, bạn Trư (Chư?) cũng rất thật thà bảo chúng tôi rằng: bây giờ uống rượu vì rượu nấu từ lúa, nhà tự nấu lấy nên cứ yên tâm. Khoảng tháng 9, tháng 10 lên thì không có rượu nấu vì lúa phải dành để ăn.
            Cả năm trời những người Mông chỉ canh tác được một vụ, còn lại đồi đất bỏ hoang do rét, do khô hạn. Cây trồng chủ lực ở đây là một loài có nguồn gốc từ núi rừng, cũng là một loại dược liệu: cây sơn tra. Trư (Chư) bảo rằng thu nhập chủ yếu là từ cây đó, trồng sơn tra vừa để lấy quả bán vừa là trồng rừng. Nếu đến đúng mùa hoa nở thì đẹp lắm, trắng muốt. Còn bây giờ chỉ là những quả xanh mà thôi, cũng chưa có chín để chúng tôi mua về làm quà. Việc chăn nuôi ở bản Mông chỉ là phụ mà thôi. Điều đặc biệt là, đến bây giờ, người Mông vẫn giữ phong tục Tết như xưa, ăn Tết khi mùa xong, có khi kéo dài hàng tháng những bữa rượu bên bếp lửa. Bởi lúc ấy, trong thời tiết ấy, họ cũng chẳng còn biết làm gì khác cho hết những đêm, những ngày lạnh và buồn.
Khi chúng tôi trở dậy sớm, cả hai vợ chồng bạn Trư (Chư?) tưởng chúng tôi đi luôn. Thực sự các bạn nghĩ rất thật và nói rất thật thôi nhưng chúng tôi đâu vô tình đến thế, ít nhất cũng chào nhau một tiếng và gửi đến một lời cảm ơn từ sâu thẳm tâm hồn chứ. Bữa ăn sáng đạm bạc với cơm lúa nương, đậu nấu với lá cơ chua và đặc biệt nhất là món da bò khô để gác bếp, chẳng biết được bung từ bao giờ, đã mềm và ăn rất bùi. Đó là sản phẩm của con bò mà gia đình nuôi, không may trượt chân ngã xuống núi, còn lại. Đến đây thì tôi không biết nói gì hơn một sự xúc động bởi tôi đã một lần nữa không phải rơi vào tình cảnh tha hương, bởi tôi được sống trong không khí của gia đình ở một nơi rất xa, rất lạ, rất khác. Và tôi cảm thấy nợ họ, đã làm phiền họ vì mất thời gian cho chúng tôi nhiều quá, khi tôi thấy những gia đình khác đi làm nương từ mờ sáng, lúc mặt trời đang ló rạng trong cái nhìn đắm đuối của chúng tôi.
          Trước khi trở về, bạn đồng hành đã xin số điện thoại của bạn Trư (Chư?) và tôi cũng đã kịp chụp một tấm hình lưu niệm với bạn. Con đường trở về vẫn hun hút đèo dốc quanh co nhưng chúng tôi bớt căng thẳng hơn, thấy quen hơn và yên tâm hơn. Nhưng đâu đó trong cảm xúc, suy nghĩ của chúng tôi, cả hai đều thấy vừa cảm phục, trân trọng vừa ái ngại, thương thương với những con người nơi đây. Dẫu thời thế ra sao, dẫu những người Mông có được sống tự do theo đúng kiểu “phép vua còn thua lệ làng" nhưng không thể phủ nhận họ chỉ là một cộng đồng thiểu số. Đem so sánh mọi thứ với các cộng đồng lớn thì họ chịu nhiều thiệt thòi trong cái phận nhỏ bé, đơn độc, khép kín lại nhưng cũng phải chạy đua, lo toan cho cái đời sống của thời mới mà cái gì cũng cần đến đồng tiền. Chẳng biết những sự hồn nhiên, chân chất, cái tâm hồn mạnh mẽ, trong trẻo kia sẽ giữ được bao lâu? Những đứa trẻ rồi sẽ không còn lầm lì, ít nói nhưng cũng không chịu ở yên trong một nơi thâm sơn cùng cốc như thế, không chịu sống cuộc đời như bố mẹ chúng khi đã được học nhiều hơn, biết nhiều hơn, tiếp xúc nhiều hơn với cái gọi là văn minh, tiên tiến, tốt đẹp. Mọi thứ sẽ lệch lạc, bị phá vỡ và rời đổi, rồi sẽ mất mát nhiều hơn. Liệu lúc đó người Mông có sung sướng, hạnh phúc hơn bây giờ? Và cái ước mơ cho con học lên, đi xa hơn của vợ chồng Trư (Chư?) có phải mang đến một sự văn minh, tốt đẹp, tiên tiến? Và những giá trị mà cộng đồng đa số của chúng ta áp đặt lên có thực sự đem lại mọi lợi ích và chất lượng sống cho các cộng đồng khác?
          Bản Mông giờ không còn tiếng sáo, tiếng khèn và càng không có những bài ca trên đỉnh núi. Cuộc sống là một cuộc chạy đua không ngừng nghỉ để thích ứng, để vươn tới những gì lớn hơn, tốt hơn, đẹp hơn, theo quan niệm của con người – nhất là những thứ người ta chưa có. Người Mông cực bản lĩnh và mạnh mẽ nên mình tin họ sẽ làm rất tốt mọi thứ. Những bài ca ngoại vọng không còn nhưng tôi lại nghe thấy, cảm thấy những bài ca từ trong trái tim, tấm lòng của những con người quanh năm sống với núi đèo, mây gió, sương giá – bài ca của những hy vọng, của ước mơ, của một sự chân thành, chất phác, của tình người và sự hồn hậu đáng ngạc nhiên. Bài ca ấy theo tôi về nơi phố thi, để ngay sau đó, dù chỉ trên mạng xã hội tôi đã nhận được vị chua chát đầu tiên của tỵ hiềm, tính toán. Nhưng thôi, cuộc sống dù sao vẫn tiếp diễn và những chuyến đi cùng những tấm lòng đã, đang, sẽ mở ra với tôi dạy cho tôi biết sống khác, phóng khoáng, biết ngoảnh mặt đi, để bao dung, để trân quý những điều tuyệt vời khác. Và từ đó, tôi biết rằng, hiện hữu là một cơ thể sống người có thể rất dễ nhưng sống ra một con người chẳng dễ chút nào, nhất là một cuộc sống mạnh mẽ, hồn nhiên, tươi vui như chính thiên nhiên, như chính những người bạn xa tôi may mắn được gặp một lần, có khi cũng chỉ một lần trong cuộc đời mà thôi.
          Khi tôi viết những dòng này, bạn đồng hành đã gửi cho tất cả số ảnh bạn chụp trong chuyến đi. Nhìn lại gương mặt của Trư (Chư?), của những đứa trẻ, của mẹ cậu ấy tôi vẫn không hết cảm giác băn khoăn, day dứt. Tôi vẫn thấy có cái gì tội tội, có gì bất an khi cuộc sống của họ chênh vênh lưng chừng núi như một người đi trên mép vực vậy. Nghĩ kỹ lại, đó chỉ là cảm giác, cảm xúc của tôi, nhìn từ cái nhìn bề ngoài mà thôi, chứ bao đời nay, nhà bạn ấy, người Mông vẫn sống như vậy đó thôi. Điều quan trọng trong cuộc sống là cảm giác của mỗi chúng ta với cuộc sống của chính mình, chứ không phải sự so sánh, bì tị này khác. Biết đâu cuộc sống hiện tại lại chẳng tốt hơn một cuộc sống đủ đầy, sung túc về vật chất mà con người lại luôn phải đề phòng, luôn luôn sợ hãi vì sự vụ lợi, tính toán nên có thể sẵn sàng mưu hại nhau? Tôi và bạn đồng hành vẫn hy vọng một ngày không xa, sẽ trở lại nơi đây, về thăm gia đình bạn Trư (Chư?) để thấy một cuộc sống tốt hơn, những đứa trẻ tươi vui và có thể nói chuyện được với chúng tôi, nhất là có thể gặp một thế giới mây ngàn bao quanh. Đó là thế giới của ước mơ từa tựa cổ tích và những bản Mông trên đỉnh núi sẽ thành cõi tiên nơi trần thế.

                                                                              Hà Nội, 8 – 9/4/2015

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

“Du mục” – bi kịch của con người vong quốc, vong thân

Người về soi bóng mình giữa tường trắng lặng câm

“MUÔN VỊ NHÂN GIAN” CỦA TRẦN ANH HÙNG – SỰ THĂNG HOA CỦA TINH THẦN DUY MỸ