CÁC VAI – CHỨC NĂNG NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH

       


         Nhân vật văn học là hình tượng con người được miêu tả cụ thể trong tác phẩm. Trong tác phẩm tự sự, nhân vật có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Hệ thống nhân vật sẽ dẫn dắt người đọc vào thế giới nghệ thuật riêng của tác phẩm, thể hiện thế giới quan, nhân sinh quan riêng của tác giả. Hệ thống nhân vật, đồng thời cũng là một phương diện quan trọng của bức tranh thế giới mà chủ thể kiến tạo trong tác phẩm. Những đặc điểm, những lựa chọn của nhân vật không những thể hiện khuynh hướng tư tưởng, đời sống nội tâm, cuộc đời, số phận tự thân của nó mà còn cho thấy cái nhìn, quan niệm, lập trường của tác giả, chủ thể. Do đó, nhân vật là một vai của chủ thể trong tác phẩm – hình thức chủ thể phân vai, bao gồm cả “vai xã hội” và “vai văn học”. Mỗi nhân vật mang chức năng như là một mã nghệ thuật, một mặt nạ ngôn ngữ để thể hiện chủ thể diễn ngôn văn học. Khảo sát bộ ba tiểu thuyết lịch sử Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh, chúng tôi nhận thấy hệ thống nhân vật trong tác phẩm của ông thể hiện rất rõ các vai – chức năng của một mã nghệ thuật, làm nổi bật chủ thể sở đắc chân lý với những bài học riêng. Qua góc nhìn này, chúng tôi làm rõ quan niệm, cách diễn giải về cảm nhận riêng của tác giả về lịch sử.

1. Vai – chức năng và sự phân tuyến nhân vật theo nguyên tắc nhị phân

Nhìn trên bình diện cấu trúc thể loại, tiểu thuyết lịch sử luôn bị chi phối bởi mã lịch sử và mã tiểu thuyết – yếu tố sự thật lịch sử và yếu tố hư cấu. Kéo theo đó, hệ thống nhân vật cũng được xây dựng, tổ chức phù hợp/ như một kết quả tất yếu của các mã đó. Theo cách nhìn truyền thống, hệ thống nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử thường được phân thành hai tuyến: tuyến nhân vật lịch sử và tuyến nhân vật hư cấu. Hồ Quý Ly là cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh có hệ thống nhân vật được phân tuyến rõ rệt nhất theo cách nhìn trên. Đọc tác phẩm, chúng ta sẽ không khó nhận ra những con người thật trong lịch sử như các ông vua Nghệ Tông, Dụ Tông, Phế Đế, Thuận Tông, Thiếu Đế và cả ông vua phường chèo Dương Nhật Lễ; những nhân vật đã được lưu danh sử sách: Hồ Quý Ly, Hồ Nguyên Trừng, Hồ Hán Thương, Trần Khát Chân, Trần Nguyên Hàng, Trần Nguyên Đán, công chúa Huy Ninh, Chế Bồng Nga, Phạm Sư Ôn, Dương Thị, Nguyễn Đa Phương... Bên cạnh hệ thống nhân vật có thật, được ghi lại trong văn bản chính sử là những nhân vật do nhà văn hư cấu, tưởng tượng sáng tạo nên: Sử Văn Hoa, Phạm Sinh, Thanh Mai, sư Vô Trụ, ... Các tiểu thuyết khác của Nguyễn Xuân Khánh, dẫu không rõ rệt như Hồ Quý Ly nhưng ta đều thấy sự phân đôi, thành hai tuyến nhân vật như trên. Hai tuyến nhân vật này gắn với hệ thống các sự kiện tạo nên những bước ngoặt cho tiến trình phát triển của cốt truyện, hình thành cấu trúc phân tuyến đặc trưng theo hình thức tiểu thuyết lịch sử cổ điển.

Các nhân vật lịch sử được khắc họa từ một điểm nhìn có sự gián cách về không gian và thời gian. Do đó, về cơ bản, cách nhìn nhận của Nguyễn Xuân Khánh về những nhân vật này thống nhất với góc nhìn trong văn bản chính sử. Tuy nhiên sự thống nhất này không phải đồng nhất, không phải là giống hệt hay là một bản sao. Nói đúng hơn đây chỉ là sự thống nhất trên bề mặt, còn bề sâu tư tưởng có một khoảng cách nhất định giữa nhân vật tiểu thuyết với nhân vật chính sử. Điều này thể hiện tinh thần tôn trọng lịch sử, tạo nên một không khí/ không gian, một mã lịch sử. Tuyến nhân vật này gắn liền với những sự kiện, biến cố trọng đại của các giai đoạn, thời kỳ lịch sử theo đúng tiến trình diễn biến của cái đã xảy ra. Những sự kiện như Hội thề Đồng Cổ, Chế Bồng Nga tiến vào Thăng Long, loạn Dương Nhật Lễ, vua Duệ Tông đi đánh quân Chiêm Thành, cải cách của Hồ Quý Ly, quân khởi loạn của Phạm Sư Ôn chiếm được cả một vùng Thăng Long, việc dời đô từ Thăng Long về Tây Đô, Hội thề Đốn Sơn, Hồ Quý Ly phế Thiếu Đế, chấm dứt triều đạt nhà Trần lập nên triều đại nhà Hồ... cứ dồn dập diễn ra trong sự tương tác với cuộc đời, số phận của những nhân vật lịch sử. Những con người này gắn số phận mình với thời đại, với vận mệnh của đất nước. Họ vừa là chủ thể lịch sử, vừa là nạn nhân, đồng thời cũng là sản phẩm của thời đại lịch sử đặc thù – thời loạn – tạo nên những anh hùng/ gian hùng. Nguyễn Xuân Khánh hầu như không thể hiện trực tiếp, cụ thể thái độ, đánh giá nào của chủ thể về những nhân vật này. Ông tổ chức trần thuật bằng hình tượng người kể chuyện giấu mặt, tạo tính khách quan, như đứng ngoài quan sát và kể những điều mình thấy/ biết - người kể toàn tri - kể lại câu chuyện như nó vốn có, như nó đã xảy ra/ là thế. Mọi sự đánh giá, mọi quan điểm và thái độ nhà văn đều đặt vào các nhân vật, để các nhân vật phát ngôn tiếng nói của các nhân mình, theo vị trí nhìn của mình. Vì tôn trọng lịch sử và cái thật theo tinh thần của cộng đồng trong chính sử nên nhà văn vẫn xây dựng hệ thống nhân vật này theo lối cổ điển với đầy đủ các chi tiết về nguồn gốc, xuất thân, những giai thoại về họ, những điểm mốc lớn trong cuộc đời, những hoạt động gắn với điểm nút thời gian cụ thể trong cuộc đời họ, trong lịch sử. Cách làm này rất gần với cách kể của các câu chuyện trong chính sử.

Nhưng mặt khác, ở vai văn học, các nhân vật này được xây dựng theo khuynh hướng tiểu thuyết hóa, tạo ra sự khác biệt về bản chất loại hình so với nhân vật trong chính sử. Nhân vật chính sử được xây dựng theo nguyên tắc hoàn toàn khách quan, bằng cái nhìn của người kể sử quan, ghi chép, tái hiện. Những chi tiết liên can đến cuộc đời nhất thiết phải gắn với những mốc thời gian, những biến cố hay sự kiện của lịch sử, của đất nước. Góc nhìn về nhân vật là góc nhìn sử thi, nhìn con người trong quan hệ với thời đại, quốc gia, dân tộc. Nhân vật chỉ diễn một vai duy nhất, vai lịch sử, chịu trách nhiệm với tất cả những hành động, tư tưởng, chiến lược của mình với cộng đồng, dân tộc và thời đại. Vì thế, các nhà viết sử lược bỏ tối đa các yếu tố miêu tả, biểu cảm, mà chỉ dùng ngôn ngữ kể, tạo ra một kiểu người kể chuyện khách quan, trung tính. Các chi tiết, sự việc liên quan đến nhân vật được lựa chọn kỹ lưỡng, cô đặc, và hầu hết phải có liên can, chi phối đến quan hệ của nhân vật với lịch sử, với vấn đề chung của đất nước. Trong khi đó, nhân vật trong tiểu thuyết lại được xây dựng bằng cả một hệ thống chi tiết rậm rạp, phong phú, đa chủng loại, có cả những chi tiết hư cấu, sáng tạo thêm của nhà văn. Tác giả miêu tả cụ thể từng góc cạnh, từng mặt trong một con người. Tọa độ điểm nhìn về nhân vật cũng đa dạng, từ nhiều phía, nhiều cự li khác nhau. Có cái nhìn ở khoảng cách xa - khoảng cách sử thi, ngưỡng vọng, có cái nhìn ở tầm gần, ở con người quen thuộc trong cuộc sống đời thường, với những suy nghĩ bình thường, có cả điểm nhìn của chính nhân vật tự giãi bày, tự thể hiện thế giới nội tâm... Tất cả các nhân vật này được tiểu thuyết hóa bằng cái nhìn đa chiều, thể hiện ở nhiều tư cách trong nhiều vai khác nhau, với những mối quan hệ đa dạng, chằng chịt, phức tạp tạo nên tính đối thoại đa thanh đặc trưng của tiểu thuyết. Nhân vật lịch sử không chỉ còn hiện lên với tư cách là người đại diện cho thời đại qua cái nhìn của chủ thể chép sử ghi công, kể tội mà là con người sống, có tính cách, tâm hồn, có số phận riêng, được nhìn bằng cái nhìn thế sự hóa, cái nhìn nhân bản.

Nguyễn Xuân Khánh đã xây dựng một hình tượng nhân vật Trần Khát Chân sắc nét, với tính cách, tâm hồn, đời sống cụ thể, chân thực từ vài chi tiết, chỉ dẫn ghi lại trong sách sử. Những câu chuyện về Khát Chân đi đánh Chế Bồng Nga, âm mưu giết Quý Ly với các đồng chí, tôn thất nhà Trần trong chính sử được làm rõ, tường minh hóa sống động bằng việc lấp đầy, xây đắp thêm một loạt chi tiết kể, miêu tả theo suốt cả một quá trình từ hình thành, lên kế hoạch, đến hành động, dẫn tới kết cục cuối cùng. Sức mạnh của nghệ thuật tự sự được phát huy cao độ trong việc tạo ra tính chất chân thực của các sự kiện được kể qua một câu chuyện mạch lạc, có mở đầu, phát triển và kết thúc trọn vẹn. Như thế, chính mã lịch sử, tính chân xác của lịch sử lại được tạo ra từ các thủ pháp của nghệ thuật tự sự, hay nói như Hayden White “lịch sử như là tự sự (history as narrative)” (1). Với nhân vật Trần Khát Chân trong Hồ Quý Ly, chúng tôi nhận thấy nhà văn còn tạo ra những câu chuyện khác, đưa vào những sự việc khác văn bản chính sử. Những góc cạnh trong cuộc sống thường nhật, của đời tư và bao mối quan hệ được nhà văn dựng lên, làm rõ nhân vật, không chỉ là một vị thượng tướng quân có nhiều công lao mà còn là một con người bình thường, một lực lượng đối địch với Quý Ly, tham gia cuộc cờ chính trị, giành giật quyền lực bằng nước cờ riêng của mình. Đó là những chi tiết về thái ấp trang viên của Khát Chân – không gian vườn mai với hai cây lão mai đẹp và quý, là những cuộc rượu thưởng mai, ngâm thơ của ông cùng Hồ Nguyên Trừng, là mối quan hệ phụ - tử với Thanh Mai, và nước cờ dùng Thanh Mai để dò xét, kéo Nguyên Trừng về phía mình... Những chi tiết và mối quan hệ phức tạp của nhân vật với các nhân vật khác khiến người đọc có thể thấy nhiều mặt, kể cả những góc khuất trong con người vị thượng tướng quân. Trần Khát Chân trong Hồ Quý Ly vừa là vị thượng tướng quân có tài thao lược, lập nên chiến công lẫy lừng, một trung thần của triều Trần lại vừa là con người thích sống cuộc đời an nhàn, ẩn dật, có thú chơi tao nhã, có tài thơ phú. Và điều đặc biệt là, con người tưởng là anh hùng, có nhân cách cao cả ấy, để thực hiện chí hướng, sống theo lý tưởng của Nho gia, sẵn sàng thực hiện nhiều cơ mưu thâm hiểm, thậm chí không từ thủ đoạn. Nguyễn Xuân Khánh kể những câu chuyện khác, tạo điểm nhìn khác, khiến hình tượng hiện lên như một con người sống, với cả phần cao cả lẫn thấp hèn, quân tử và tiểu nhân, song rất hài hòa, hợp lý. Những nhân vật khác như Hồ Quý Ly, Hồ Nguyên Trừng, Nguyễn Cẩn, Trần Nguyên Hàng, Trần Nghệ Tông, Trần Thuận Tông... đều được xây dựng trên điểm nhìn, bằng những thủ pháp tương tự. Con người chính sử và con người đời thường luôn đồng hành cùng nhau, hiện hữu trong từng nhân vật với tư cách là vai văn học.

Song song với tuyến nhân vật lịch sử là tuyến nhân vật hư cấu – nhân vật do nhà văn sáng tạo ra trong tác phẩm. Từ Hồ Quý Ly qua Mẫu Thượng Ngàn đến Đội gạo lên chùa, chúng tôi nhận thấy loại hình nhân vật này ngày càng đông đảo, chiếm ưu thế hơn nhân vật lịch sử. Những nhân vật này không được xây dựng trên cơ sở những chi tiết lịch sử chính xác nhưng lại có liên hệ mật thiết với bối cảnh lịch sử thời đại, với các nhân vật lịch sử, hoạt động trong giới hạn của một khung khổ không gian trường nghĩa quy định sự lựa chọn và quan niệm của mình. Khoảng cách trong trường nhìn cũng bị xóa bỏ dần, tạo cảm giác gần gũi. Nhân vật hiện lên là những con người quen thuộc, được thể hiện từ cái nhìn ở bên trong, từ những chi tiết sinh hoạt đời thường. Mỗi nhân vật loại này đại diện cho một khuynh hướng tư tưởng, một quan điểm nào đó trong tương quan với quan điểm, khuynh hướng tư tưởng khác, tương đồng/ hòa điệu hoặc đối lập/ đối địch.

Sử Văn Hoa, sư Vô Trụ, Thanh Mai, Phạm Sinh trong Hồ Quý Ly là những nhân vật tiêu biểu cho kiểu vai – chức năng này. Sử Văn Hoa suốt đời trung thành với quan điểm của mình, một người chép sử trung thực, khách quan, sống khẳng khái vì dân tộc, đất nước. Ông đề cao lịch sử, đề cao Phật giáo và ý nghĩa của những ngôi chùa làng, bởi chúng mang trong mình “hồn nước”. Cho nên, ông bất chấp cả tính mạng của mình để can gián Hồ Quý Ly không dời đô vì lý do đơn giản “cốt ở đức chứ không cốt ở nơi hiểm trở”. Nhà sư Vô Trụ, Phạm Sinh (Hồ Quý Ly) cùng một loạt các nhân vật khác trong Đội gạo lên chùa như sư Vô Trần, Vô Úy, Khoan Độ, An thuận theo quan điểm sống “tùy duyên”. Vì thế, cuộc đời có đảo lộn, càn khôn có chuyển rời, xã hội có ô trọc và tàn bạo đến mấy họ vẫn an nhiên tu tâm, sống từ, bi, hỉ, xả. Các nhân vật nữ như Thanh Mai trong Hồ Quý Ly; Bà Tổ Cô, Bà Mùi, Thím Pháo, Bà Ba Váy, Hoa, Nhụ... trong Mẫu Thượng Ngàn; bà vãi Thầm, Nguyệt, bà Nấm, Huệ, Rêu... trong Đội gạo lên chùa đều hướng đến một tư tưởng/ khao khát là hạnh phúc giản dị của cuộc sống gia đình bình yên, là tình yêu thương, một điểm tựa vững vàng cho cuộc đời giữa những loạn ly, bất ổn của thời đại. Những tư tưởng, quan niệm của các lớp nhân vật tiêu biểu cho những lớp người trong xã hội, vừa tương đồng, vừa đối lập/ va chạm, nâng đỡ lẫn nhau hoặc đấu tranh với nhau. Bất luận sự va chạm đó đưa đến kết quả/ hậu quả gì thì cái chung cục cuối cùng người đọc nhận về từ hệ thống nhân vật vẫn là những bài học thâm trầm, sâu sắc về lẽ đời, về phận người, và quy luật vận động của lịch sử, xã hội vẫn còn nguyên giá trị cho tới hôm nay.

2. Vai – chức năng và các loại hình nhân vật tiểu thuyết

Rất nhiều nhân vật nhà văn Nguyễn Xuân Khánh là nhân vật tư tưởng/ mang tư tưởng. Những nhân vật này thể hiện rất rõ tình cảm, quan điểm, cái nhìn riêng của nhà văn và được đúc kết qua ngôn ngữ nhân vật. Các nhân vật này phá vỡ tính chất phân vai – chức năng theo tuyến trong góc nhìn của nguyên tắc nhị phân lịch sử - hư cấu. Dù là nhân vật có trong chính sử hay hư cấu thì khi vào vai con người tư tưởng sẽ mang một diện mạo khác, tiêu biểu cho một quan niệm, góc nhìn, cách diễn giải – một diễn ngôn – về lịch sử, về xã hội và nhân sinh gắn với ý thức hệ, tư tưởng riêng.

Kiểu nhân vật này được xây dựng qua nhiều lời đối thoại, độc thoại như những chân lý, những phát ngôn kiểu danh ngôn, châm ngôn, đúc kết kinh nghiệm, bài học và thông điệp của chủ thể. Tiêu biểu phải kể đến các nhân vật: Sử Văn Hoa, sư Vô Trụ, Phạm Sinh (Hồ Quý Ly), Pieer, René, bà Mùi, Nhụ (Mẫu Thượng Ngàn), sư cụ Vô Úy, An, Đức (Đội gạo lên chùa). Tất cả những suy nghĩ, quan điểm, tư tưởng của loại hình nhân vật này được đặt trong cùng một hệ quy chiếu, một tọa độ không gian và thời gian của trường nhìn, quy tụ về một trung tâm điểm là chủ thể sở đắc chân lý. Cho nên mỗi phát ngôn của họ (dạng đối thoại/ độc thoại) đều mang sẵn một quan niệm, một cách đánh giá/ định giá đối tượng từ một điểm nhìn, góc tiếp cận nào đó. Những lời nói như lời thoại dưới đây của nhân vật René trong Mẫu Thượng Ngàn rất phổ biến trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh (ta có thể thấy ở các nhân vật khác như Sử Văn Hoa, Vô Trụ, Vô Úy, An, Bà Mùi, Nhụ...): “- Tôi còn nhớ một câu nói của một nhà văn Đức: “Nul ne se Proméne impunément sous les palmes” (chẳng ai đi dưới bóng hàng cọ mà lại không hề hấn gì). Phải chăng khi ra khỏi bóng hàng cọ, ta sẽ chẳng còn giống như xưa? Ở đời, trong cuộc chơi, cả hai bên đều phải đi qua dưới bóng hàng cọ” (2). Còn đây là một lời thoại René đáp lại quan niệm của Pierre nói về ông Lềnh:“- Ông Lềnh là người hoan nghênh những đứa con lai.”(3) mang chiều sâu triết lý, là suy ngẫm của một con người qua bao quan sát, trải nghiệm đã rút ra bài học, quy luật của đời sống. Bản thân những lời thoại dạng này, tự nó đã mang trong mình tiếng nói của chủ thể, là một vai của chủ thể trong tác phẩm. Tuy nhiên, những nhân vật này không sơ cứng, giản đơn, giống như những cái loa phát ngôn cho tư tưởng, quan niệm, chuyển tải bài học. Họ hiện lên sống động như một con người thực có đời sống riêng, có tính cách, nội tâm phức tạp, được xây dựng là những con người nếm trải. Những phát ngôn của họ cũng nảy sinh tự nhiên từ những tình huống, những bối cảnh dưới dạng những lời trò chuyện, giãi bày, chia sẻ tâm tình. Cho nên nhân vật và tính cách của họ không đơn thuần chỉ là một sự ước lệ, một hình thức ẩn dụ để chuyên tải bài học hay thông điệp.



        Trong thế giới nhân vật của Nguyễn Xuân Khánh, ngoài nhân vật tư tưởng/ mang tư tưởng còn có những nhân vật của đời thường – là những mảnh đời, số phận nhỏ bé, chìm lấp giữa lịch sử thời đại như một hạt cát bụi giữa sa mạc mênh mông. Những nhân vật này được xây dựng từ điểm nhìn ở tiêu cự gần, hiện lên như một người quen, mang những tình cảm, suy nghĩ, quan niệm phổ biến, tiêu biểu của một lớp người sống trong bối cảnh lịch sử đó. Họ là hiện thân của số phận và bi kịch của con người cá nhân trong lịch sử, tự mang trong mình một lịch sử đời. Đó là những câu chuyện đời của Thanh Mai, Phạm Sinh, ... (Hồ Quý Ly), ông Hộ Hiếu, Thím Pháo, Trịnh Huyền, Điều, Bà Ba Váy, ... (Mẫu Thượng Ngàn), Nguyệt, bà Nấm, Huệ, sư Khoan Độ, Rêu... (Đội gạo lên chùa). Những câu chuyện này tạo nên tuyến truyện riêng, song hành, hòa phối cùng tuyến truyện của biến cố lịch sử khách quan. Điều này khiến cho cốt truyện của tiểu thuyết lịch sử không hẳn là những truyện kể lịch sử mà là những câu chuyện về phận người được kể trong phối cảnh lịch sử - thời đại. Cuộc đời, số phận cùng những biến động thăng trầm, những vật lộn để ứng phó/ thích nghi và vươn lên của các nhân vật mang sẵn một lý tưởng, một lẽ sống, một cách nhìn nhận, đánh giá riêng. Lý tưởng, quan niệm này thường gần với quan niệm của dân gian, được chưng cất từ kinh nghiệm sống của nhân dân. Song điều quan trọng đó cũng là tư tưởng, cách nhìn nhận, lý giải của chủ thể từ lập trường nhân dân, thác vào vai của các nhân vật số phận. Từ đó, nhà văn tìm đến những mã truyện kể dân gian, mã văn hóa, phong tục truyền thống và cả những huyền thoại nhuốm màu kỳ ảo được thêu dệt nên để thể hiện bài học từ trong cái nhìn, trong tâm thức nhân dân. Câu chuyện lịch sử bây giờ thành câu chuyện đời của con người cá nhân gắn với làng nước – lịch sử của đời sống và số phận cá nhân gắn với thế giới tâm linh được thêu dệt từ muôn điều huyền bí. Đó là một cách dựng truyện lịch sử theo khuynh hướng “ngoại biên hóa”, tiểu thuyết hóa từ những mảnh ghép vi lịch sử.

3. Vai –  chức năng và kết cấu tiểu thuyết lịch sử

Với Nguyễn Xuân Khánh, câu chuyện về vai – chức năng của nhân vật không dừng lại ở vấn đề loại hình, mà quan trọng hơn là vấn đề kết cấu, là việc tổ chức hệ thống nhân vật. Bản thân việc phân tuyến nhân vật ở trên đã liên quan mật thiết đến cấu trúc những câu chuyện kể, các tuyến truyện trong mạch cốt truyện của tác phẩm. Cho nên, cùng với việc lựa chọn loại hình, cách thức tổ chức, tạo dựng mối quan hệ trong tổng thể hệ thống nhân vật của nhà văn đã tạo ra một kiểu cấu trúc nhân vật, kiểu cấu trúc truyện kể độc đáo, phù hợp với tính chất dụ ngôn lịch sử của tác phẩm.

Các nhân vật được nhà văn xây dựng với tư cách là những chủ thể lựa chọn. Những chủ thể lựa chọn này gắn với bức tranh thế giới được kết cấu thành hai mảng đối lập tương ứng với hai khuynh hướng lựa chọn: lối sống nhập thế, hành động (dương tính) với lối sống thuận theo lẽ “tùy duyên lạc đạo” (âm tính). Ở giữa sự đối lập này là sự lựa chọn trung gian của lối sống trung dung như để dung hòa hai đối cực trên. Mỗi sự lựa chọn ấy được mặc nhiên mang trong mình một quan niệm sống, cách nhìn và lý giải riêng, lý tưởng/ tư tưởng riêng. Đây là cách tốt nhất để thể hiện chủ thể theo hình thức phân vai trong những chủ thể lựa chọn. Nhìn từ góc độ này, nhân vật dường như được ước lệ hóa, tượng trưng hóa, sơ giản hóa thành những mô hình tư tưởng mang bài học cho chủ thể, tạo mô hình cấu trúc truyện kể trong tác phẩm.

Cách tổ chức nhân vật được phân theo vai – chức năng khiến mỗi nhân vật giữa một vai trò gắn với một chức năng trong việc tổ chức, xây dựng kết cấu tác phẩm. Theo tiêu chí này, chúng tôi nhận thấy hai kiểu nhân vật trong sáng tác của ông là nhân vật trong vai người kể chuyện và nhân vật trong vai đối tượng kể. Vai nhân vật – người kể chuyện được tổ chức linh hoạt qua hình tượng người kể chuyện ở ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba. Tuy nhiên, chỉ có hình thức người kể chuyện ở ngôi thứ nhất tự thuật về câu chuyện của đời mình trong câu chuyện lớn của làng xóm, đất nước mới là nhân vật kể chuyện đích thực. Còn nhân vật trong vai người kể chuyện ở ngôi thứ ba thực chất chỉ là đối tượng cho người kể chuyện ký thác, nương nhờ điểm nhìn để kể. Vì vậy, tuyến truyện kể của nhân vật được đan xen, kết hợp linh hoạt với tuyến truyện kể của người kể chuyện ngôi thứ ba tạo nên sự phong phú, biến hóa linh hoạt trong lối kể, khiến câu chuyện diễn biến tự nhiên như nó - vốn - có, như nó - vốn - là. Trong vai người kể chuyện, các nhân vật vừa làm nhiệm vụ dẫn truyện lại vừa tham gia vào diễn biến cốt truyện với những sự kiện, những tình tiết cụ thể.

Cách phân vai cho nhân vật sẽ dẫn đến tình trạng nhập nhòe vai – chức năng và nhân vật phải đảm trách nhiều vai. Đó là sự phân định không rõ ràng của vai dẫn truyện và vai đối tượng kể ở một số nhân vật như Hồ Quý Ly, Sử Văn Hoa (Hồ Quý Ly), Trịnh Huyền, Nhụ, Điều, Bà Mùi (Mẫu Thượng Ngàn); sư Vô Úy, Khoan Độ (Đội gạo lên chùa). Những nhân vật này phần lớn mang vai – chức năng người kể chuyện ngôi thứ ba mà thực chất chỉ là điểm nhìn của người kể chuyện ngôi thứ ba. Còn trường hợp các nhân vật kể chuyện tự thuật ở ngôi thứ nhất là đang tự mình diễn hai vai: người kể và đối tượng của truyện kể - tự mình kể về mình, tự tôi nói về tôi. Do đó, không có nhân vật mang vai – chức năng là đối tượng được kể hoàn toàn, bởi điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh luôn được di chuyển linh hoạt từ người kể chuyện ngôi thứ ba toàn tri, khách quan sang điểm nhìn của nhân vật. Việc phân vai – chức năng này sẽ tạo ra sự kết hợp của hai hình thức biểu hiện chủ thể sở đắc chân lý: hình thức khách quan hóa từ cái nhìn ở tầm xa, từ bên ngoài kể lại như cái - tự - nó qua vai nhân vật – đối tượng được kể và hình thức tự thể hiện bằng cách nhập vai vào nhân vật mang chức năng người kể chuyện để tự biểu hiện theo cái nhìn hướng nội, theo tính chất chủ quan kiểu tôi - là - thế. Hệ quả tất yếu là người kể chuyện trong tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh, dù ở ngôi nào, dù điểm nhìn có khác nhau đi nữa, cũng là người sở đắc chân lý và tính chất những câu chuyện kể, xét về bản chất vẫn là những câu chuyện độc thoại của một chủ thể trực tiếp thể hiện, nhập vai hoặc phân vai/ phân thân.

Điều đặc biệt trong cách phân vai – chức năng nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh là việc tổ chức hệ thống nhân vật theo tầng lớp, bề bậc quy củ. Các hệ thống này được xếp theo dạng sự tiếp nối qua các thế hệ của cùng một quan niệm, hệ tư tưởng hoặc theo mối quan hệ huyết thống: thày – trò, tiền nhân – hậu bối, người mở đường – người kế tục, phát triển. Đó là lớp lớp những nhân vật lựa chọn và theo đến cùng lối “tùy duyên”: Vô Trụ - Thiên Nhiên – Phạm Sinh (Hồ Quý Ly), Vô Chấp – Vô Úy, Vô Trần – Khoan Độ - An (Đội gạo lên chùa). Những nhân vật một lòng thờ Mẫu, hướng về Mẫu trong Mẫu Thượng Ngàn cũng có sự kế thừa và nối tiếp từ Bà Tổ Cô đến Bà Mùi và sau là Nhụ. Hình thức cấu trúc nhân vật này tuân theo quy luật của thời gian qua các thế hệ với những trải nghiệm/ chiêm nghiệm của họ. Nó thể hiện sự nối kết quá khứ - hiện tại – tương lai, thế hệ trước – thế hệ sau, người sáng lập – người gìn giữ - những truyền nhân, tiền nhân – hậu thế... Dù sống ở thời gian nào, thuộc thế hệ/ lớp người nào vẫn hướng về một hướng duy nhất là hệ tư tưởng, lẽ sống và quan niệm mà họ đã chọn, đã theo. Kết cấu tầng bậc của nhân vật mang theo kết cấu tầng bậc những câu chuyện kể về họ và thể hiện tầng tầng lớp lớp những bài học từ những câu chuyện kể mang tính chất dụ ngôn với bài học chung cục. Sự truyền đạt bài học ở đây diễn ra theo đúng vai – chức năng bề bậc như trong dụ ngôn: ông thày rao giảng cho học trò những bài học về lý tưởng/ tư tưởng, lẽ sống ở đời, sẽ được tiếp nhận, chiêm nghiệm và nối tiếp liên tục theo dòng chảy thời gian. 

Như vậy, trong tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh, nhân vật là một hình thức thể hiện của chủ thể - hình thức chủ thể phân vai, thể hiện lý tưởng, mang đến những bài học. Xét từ phương diện vai – chức năng, hệ thống nhân vật thực chất là một mặt nạ ngôn ngữ, một mã truyện kể. Sự đan cài các loại hình nhân vật lịch sử với nhân vật hư cấu, cách nhìn nhận nhân vật như những chủ thể lựa chọn, việc cấu trúc nhân vật theo các vai – chức năng, theo một hệ thống tầng lớp, thứ bậc góp phần tạo nên hình thức kết cấu mạch truyện kể phân tuyến/ đa tuyến, tổ chức trần thuật từ nhiều điểm nhìn với sự di chuyển linh hoạt. Những câu chuyện kể, do đó cũng được hiện ra từ nhiều góc cạnh qua cái nhìn bên trong và bên ngoài, hướng nội và hướng ngoại. Lịch sử với những sự kiện và nhân vật hiện ra trong cảm giác của người đọc như cái – nó - là, như tôi - vốn - thế, một hiện thực trong hình thức tự sự, trong tưởng tượng của người đọc. Song rút cục dù câu chuyện có ở tuyến/ lớp nào, dù có nhìn theo điểm nào trong các vị trí khác nhau, dù có là nhân vật nào đi nữa cũng sẽ được quy đồng về bài học cuối cùng, mà thường hay biểu lộ qua lời của nhân vật tư tưởng/ mang tư tưởng.

Chú thích: 

(1) Trần Đình Sử (Chủ biên - 2008), Tự sự học – Một số vấn đề lí luận và lịch sử, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, tr.114.

(2), (3) Nguyễn Xuân Khánh (2012), Mẫu Thượng Ngàn, NXB Phụ nữ, tr.806.


Bài đã đăng trên tạp chí "Văn hoá Nghệ thuật" số tháng 2 (số Tết) năm 2018


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

“Du mục” – bi kịch của con người vong quốc, vong thân

Người về soi bóng mình giữa tường trắng lặng câm

“MUÔN VỊ NHÂN GIAN” CỦA TRẦN ANH HÙNG – SỰ THĂNG HOA CỦA TINH THẦN DUY MỸ